Bộ máy Calibre 2120 – 2121 là một trong những bộ máy nổi tiếng nhất trong ngành công nghiệp đồng hồ. Ra đời vào năm 1967, là thành quả của sự hợp tác giữa Audemars Piguet, LeCoultre & Cie và Vacheron Constantin, bộ máy tự lên cót siêu mỏng này đã được sản xuất và liên tục hoàn thiện trong suốt 50 năm. Điều đáng chú ý là những chiếc Royal Oak đầu tiên của AP vào năm 1972 đều do Calibre 2120 và 2121 vận hành, và bài viết này sẽ phân tích chi tiết bối cảnh ra đời và phát triển của kiệt tác kỹ thuật này.
Trước khi trở thành thương hiệu tên tuổi như ngày nay, Audemars Piguet ban đầu là một nhà lắp ráp và hoàn thiện các bộ máy đồng hồ mà các bộ phận được cung cấp bởi một nhóm chuyên biệt, giúp ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 19 trở đi. Audemars Piguet vẫn tiếp tục các hoạt động thương mại này khi dự án Calibre 2120 được hình thành vào nửa sau của thế kỷ 20. Để hiện thực hóa dự án trên, thương hiệu đã hợp tác với nhà cung cấp chuyển động LeCoultre & Cie, cũng như với một trong những khách hàng lâu đời nhất của mình, Vacheron Constantin và cả thương hiệu Patek Philippe.
Quảng cáo của Audemars Piguet, được xuất bản vào tháng 2 năm 1882 trong tạp chí sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ định kỳ duy nhất vào thời điểm đó, quảng cáo này là quảng cáo lâu đời nhất được biết đến bởi thương hiệu.
Kể từ khi chiến tranh kết thúc, Audemars Piguet đã hướng sự tập trung đến các bộ máy siêu mỏng, bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi bộ máy Calibre 2003 nổi tiếng. Mặc dù nó không phải là bộ máy tự lên cót, nhưng chính Calibre 2003 đã trở thành nền tảng cho sự ra đời của Calibre 2120 huyền thoại. Những phiên bản mẫu đầu tiên của Calibre 2120 được chuyển giao vào năm 1967 với thiết kế lộng lẫy cùng những đặc điểm kĩ thuật đặc biệt – với độ dày chỉ 2.45mm. Đây là bộ máy lên dây cót mỏng nhất thế giới, chuyển động với một roto trung tâm. Khi những yếu tố về mặt kỹ thuật phát triển, Calibre 2121 ra đời với chỉ báo ngày vào năm 1970 và lịch vạn niên hoạt động dưới mặt số với Calibre 2120/2800. Về mặt thẩm mỹ, thông qua cấu trúc openworked, bộ máy đã được sử dụng để trang bị cho hơn 12.000 chiếc đồng hồ trong 10 năm tiếp theo, bao gồm cả những mẫu Royal Oak nổi tiếng. Việc sản xuất bộ máy do chính Audemars Piguet tiếp quản vào năm 2002, khi Jaeger LeCoultre trở thành một phần của Tập đoàn Richemont.
Bộ máy siêu mỏng Calibre 2003. Bộ máy lên dây cót bằng tay mỏng nhất vào thời điểm đó (1,64 mm).
Thị trường đồng hồ vào những năm 1990
Tại Audemars Piguet, thuật ngữ “Chế tác” (Manufacture) đã được sử dụng cho mục đích quảng cáo từ thế kỷ 19. Để chứng minh cho sự khéo léo về mặt thủ công, từ “chế tác” có nghĩa là “làm bằng tay”. Tuy nhiên, từ những năm 1990 trở đi và đặc biệt là dưới sức ảnh hưởng của các chiến dịch tiếp thị đồng hồ, ý nghĩa của thuật ngữ này được chuyển đổi thành “quá trình chế tác một chiếc đồng hồ hoàn toàn độc lập bởi một thương hiệu”. Do đó, cụm từ này được coi là sự đảm bảo về tính toàn vẹn và giá trị của 1 chiếc đồng hồ, Ý tưởng này xuất hiện sau cuộc đổ bộ của cuộc khủng hoảng Quartz (đồng hồ pin) vào khoảng giữa năm 1975 và 1985, khi các tập đoàn sản xuất đồng hồ lớn (Swatch Group, Richemont, LVMH …) đã mua lại nhiều nhà cung cấp nhỏ lẻ cho chính họ.
Audemars Piguet cũng đã tham gia vào quá trình chuyển đổi này và đạt được trạng thái “Chế tác” như trên. Hội nhập theo chiều dọc là phương pháp gần như duy nhất để duy trì sự độc lập của một doanh nghiệp gia đình. Năm 1999, bộ máy in-house đầu tiên, Calibre 3090 ra đời, theo sau bởi Calibre 3120 vào năm 2003 và nhiều bộ máy khác. Qúa trình này cũng đi kèm với việc sản xuất bộ vỏ đồng hồ tại xưởng sản xuất chuyên dụng ở Meyrin (Centror) và sau đó là ở Le Brassus.
Mối quan hệ giữa Audemars Piguet, LeCoultre & Cie và Vacheron Constantin.
Kể từ thế kỷ 19, Audemars Piguet đã là một nhà thiết lập. Trong các xưởng nhỏ ở le Brassus, một số ít thợ đồng hồ có nhiệm vụ điều chỉnh, hoàn thiện và lắp ráp các bộ phận do những nghệ nhân độc lập của Vallée de Joux như Louis Elisée Piguet, Louis Audemars, Victorin Piguet, Alfred Aubert và nhiều người khác thực hiện.
Mối quan hệ giữa những người nghệ nhân này đã vượt qua khuôn khổ đồng nghiệp và mở rộng đến dàn hợp xướng, câu lạc bộ thể dục dụng cụ hoặc thậm chí là câu lạc bộ trượt tuyết. Trong một thung lũng hẻo lánh, mọi người đếu biết nhau, và tình bạn bền chặt cũng góp phần củng cố sự hợp tác công việc ngày càng vững chắc và sâu đậm hơn. Ví dụ như Georges Golay – người gia nhập Audemars Piguet vào năm 1945 và sau đó điều hành công ty từ năm 1967 cho đến năm 1987 – là một người bạn tuyệt vời của cựu giám đốc điều hành Roger LeCoultre (1906 – 1971).
Paul Edward Piguet (1890–1979), con trai của một trong những người đồng sáng lập Audemars Piguet, đang trượt tuyết. Ở phía sau, chúng ta có thể thấy tòa nhà lâu đời nhất của Audemars Piguet.
Tình bạn này chỉ là một phần trong mối quan hệ bền chặt mà Audemars Piguet và LeCoultre & Cie (đổi tên thành Jaeger-LeCoultre vào năm 1979) đã nuôi dưỡng từ thế kỷ 19 trở đi. Mối liên kết này đã xuất hiện trong các tài liệu lưu trữ ít nhất là từ năm 1882, nhưng do hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ II, và cụ thể hơn là từ năm 1948 trở đi, thì các công ty mới có cơ hội xích lại gần nhau hơn.
Người thứ ba đóng vai trò quan trọng không kém cho sự ra đời và phát triển của Calibre 2120 là Vacheron Constantin, thương hiệu có trụ sở tại Geneva đã có lịch sử hơn hai thế kỷ và cùng thuộc một tổ chức tài chính với LeCoultre & Cie: nhóm SAPIC (Société Anonyme des Participations Industrielles et Commerciales).
Ngoài mối quan hệ thân thiết với nhà sản xuất bộ máy, Vacheron Constantin đã là khách hàng trung thành của Audemars Piguet từ những năm 1880. Vào những năm 1950, mối quan hệ bền chặt đến mức một số đồng hồ Audemars Piguet đã được bán tại cửa hàng Vacheron Constantin ở Geneva. Trên thực tế, đó là giám đốc bán hàng của Vacheron Constantin, Francis Berger, người đã bán chiếc Royal Oak bằng vàng trắng đầu tiên cho Shah of Iran vào năm 1972, một kiệt tác độc đáo được chế tác theo yêu cầu của ông.
Xu hướng siêu mỏng
Chúng ta hãy cùng phân tích Calibre 2120, với độ dày chỉ 2,45 mm. Để giảm mạnh độ dày của một bộ máy đòi hỏi sự đầu tư vào kỹ thuật lớn. Và tại Audemars Piguet, xu hướng này xuất hiện từ năm 1900 cho đến 1910, vào thời điểm nổ ra sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực chế tác những bộ máy gọn và nhỏ.
Quảng cáo Audemars Piguet 1950. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Audemars Piguet chuyên sản xuất đồng hồ siêu mỏng.
Sau thế chiến II, Audemars Piguet chuyên sản xuất đồng hồ siêu mỏng – một lĩnh vực ít được quan tâm trước đấy nhưng lại trở thành một yếu tố cốt lõi. Vào năm 1958, hơn 75% đồng hồ Audemars Piguet có bộ máy Calibre 2003, một bộ máy chỉ dày 1,64mm.
Tài liệu quảng cáo Audemars Piguet. Những chiếc đồng hồ bỏ túi, mỏng đến mức chúng dường như đang lơ lửng trong không trung
Chế tác bộ máy lên cót tự động nhưng phải mỏng: Một thách thức không hề dễ dàng
Một đặc điểm nổi bật khác của chế tác đồng hồ thời hậu chiến là sự phổ biến của các bộ máy tự lên cót. Thời kỳ bùng nổ sau chiến tranh bị chi phối bởi các giá trị và lối sống mới: Tốc độ, hiệu quả, hiện đại, du lịch, trẻ trung. Tinh thần mới của thời đại đã hòa hợp một cách hoàn hảo với sự phát triển của những chiếc đồng hồ tự động. Vì người đàn ông năng động nào lại còn thời gian để tự lên cót cho chiếc đồng hồ của mình cơ chứ? Các nhà sản xuất đồng hồ đã đặt niềm tin vào tương lai của sự đổi mới này, mặc dù sẽ mất kha khá thời gian để thuyết phục một số thị trường bảo thủ hơn, đặc biệt là vì các bộ máy tự động đầu tiên khá dày.
Bộ máy tự lên dây cót 2498. Đường kính 29,5 mm (13 lignes), cao 6,65 mm. Giờ, phút, giây nhỏ, 21 viên chân kính.
Năm 1954, Audemars Piguet giới thiệu những chiếc đồng hồ tự lên dây cót đầu tiên của mình, đặc biệt là mẫu 5112.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó, không có bộ máy tự động nào là mỏng cả. Mọi người đều nhận biết rằng một thương hiệu có thể cung cấp hai phẩm chất này trong cùng 1 chiếc đồng hồ sẽ sở hữu một lợi thế vô cùng lớn. Audemars Piguet đã khẳng định rằng “khách hàng đến với chúng tối chủ yếu vì những chiếc đồng hồ mỏng. Khi sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn, chúng tôi phải cẩn thận về độ dày những thành phẩm của mình”. Trên thực tế, ngay từ năm 1960, Piaget đã giới thiệu Calibre 12P chỉ dày 2,3mm. Audemars Piguet đã chọn một roto trung tâm cho các thiết kế của mình, một thiết bị mạnh mẽ hơn nhưng lại gặp khó về nhiều khía cạnh khác.
Những bất đồng ban đầu
Vào thời điểm đó, Jacques-Louis Audemars, cháu trai của một trong những người sáng lập thương hiệu, chịu trách nhiệm phát triển các cơ chế đồng hồ mới. Là giám đốc kỹ thuật và chủ tích hội đồng quản trị tương lai, ông ấy trên hết là một thợ đồng hồ.
Hồ sơ của công ty Audemars Piguet có đề cập đến một dự án chế tác một bộ máy tự động siêu mỏng được thực hiện với Frédéric Piguet vào năm 1960 nhưng không bao giờ thành hiện thực. Họ không nói rõ ai trong số LeCoultre, Vacheron Constantin hay Audemars Piguet lần đầu tiên đưa ra ý tưởng về Calibre 2120, nhưng họ lại cho rằng chính Xưởng sản xuất ở Le Brassus là người dẫn đầu. Vào ngày 9 tháng 6 năm 1964, Jacques-Louis Audemars phàn nàn với LeCoultre: “Trong ba hoặc bốn năm qua, chúng tôi đã để khách hàng của mình chờ đợi và họ ngày càng thấy khó hiểu tại sao các chuyên gia về đồng hồ siêu mỏng, siêu sang trọng. vẫn đang cung cấp những chiếc đồng hồ tự lên dây cót dày nhất trên thị trường!”.
Thư từ Audemars Piguet gửi LeCoultre & Cie. Audemars Piguet giải thích với nhà sản xuất bộ máy chính của mình nhu cầu cấp thiết về một loại đồng hồ tự lên cót cực mỏng để đáp ứng nhu cầu cấp bách của khách hàng.
Jacques-Louis Audemars và Maurice Audemars
Các kho lưu trữ của Audemars Piguet chứa thư từ với LeCoultre & Cie liên quan đến sự phát triển của Calibre 2120. Thư từ, ghi chú nội bộ và báo cáo thử nghiệm là minh chứng cho sự hợp tác mạnh mẽ khi Jacques-Louis Audemars thường xuyên đến thăm làng Le Sentier, cách Le Brassus 4km. Tại đây, ông đã gặp gỡ kỹ sư thiết kế bộ máy Maurice Audemars để thảo luận về các vấn đề như khả năng dự trữ năng lượng, bánh xe cân bằng, v.v…
Maurice Audemars (khoảng 1923-1974), một kỹ sư chế tác đồng hồ được đào tạo tại Trường Kỹ thuật Vallée de Joux, là một người không quá nổi bật trong ngành. Mặc dù các nguồn tin ít nhắc đến ông, nhưng ông vẫn đóng một vài trò quan trọng trong lịch sử chế tạo đồng hồ. Ông đã phát minh ra một số bộ máy tự động (đáng chú ý là bằng sáng chế CH256020A năm 1948 và CH343294 năm 1959). Tên của ông đã xuất hiện trên bằng sáng chế cho Calibre 2120 được nộp vào ngày 18 tháng 10 năm 1965. Theo một số nguồn tin đáng tin cậy, từ cả người sáng lập AP Customer Service, Wilfred Berney, ghi ông là cha đẻ của bộ máy Calibre huyền thoại 2003.
Các kế hoạch từ năm 1961 hiển thị tham chiếu 920 (tên LeCoultre cho Calibre 2120) cho thấy rằng dự án đã được tiến hành và thực sự bắt đầu vào mùa xuân năm 1963. Các đặc tính của bộ máy được điều chỉnh về độ dày, tần số và mức dự trữ năng lượng. Từ tháng 6 năm 1964 đến tháng 4 năm 1965, Jacques-Louis Audemars Piguet đã đeo một mẫu thử nghiệm trên cổ tay của mình. Hầu hết các kế hoạch đã được vạch ra vào năm 1966 và những mẫu đầu tiên được giao vào năm 1967 – cùng năm những bộ máy pin đầu tiên dành cho đồng hồ đeo tay được giới thiệu trong ngành.
Một kiệt tác của sự hài hòa giữa độ mỏng và tính mạnh mẽ
Calibre 2120 sở hữu những đặc điểm vô cùng nổi bật. Vào năm 1967, với độ dày tổng thể chỉ 2,45 mm, bộ chuyển động đã nhận được danh hiệu đồng hồ tự lên cót với roto trung tâm mỏng nhất thế giới.
Bộ máy siêu mỏng Calibre 2120 và 2121
Văn bản của bằng sáng chế CH14338 / 65 giải thích những tính năng đột phá của nó. Hệ thống lên dây cót của bộ máy mang lại hiệu suất vượt trội hơn so với roto vi mô vì đường kình roto rộng (28 mm) và có trọng lượng khá nặng. Đối với một chiếc đồng hồ tự lên cót, trọng lượng của dây quấn hoặc roto càng nặng thì hiệu suất sẽ càng lớn. Nhưng trong một cơ chế siêu mỏng, những phẩm chất này (đường kính và độ dày) có thể sẽ làm ảnh hưởng đến bộ máy, đặc biệt trong trường hợp chịu tác động mạnh. Tuy nhiên, Calibre 2120 đã cung cấp một giải pháp vô cùng đơn giản: Roto được hỗ trợ bởi các con lăn bằng ruby, khá giống với hệ thống đường ray xe lửa. với mục đích “giảm lực căng mạnh lên trục trung tâm roto”.
Bộ máy Calibre 2121, mặt số
Để đảm bảo độ mỏng tối ưu, bộ máy không có kim giây. Tần số của nó tương ứng với 19.800 dao động mỗi giờ, đồng thời được trang bị hệ thống chống sốc do công ty Kif Parehocs, cũng có trụ sở tại Vallée de Joux, sản xuất.
Các chi tiết trang trí đều ở mức tiêu chuẩn cao nhất bao gồm: vân tròn, đánh bóng sa tanh, đánh bóng chìm, vát mép, mạ vàng, v.v… Điều đáng chú ý là dòng chữ “Audemars Piguet” được khắc tinh xảo bởi chất liệu vàng.
Ra mắt vào năm 1967
Vào ngày 22 tháng 3 năm 1967, 4 năm sau khi dự án chính thức bắt đầu, Audemars Piguet đã giới thiệu 10 chiếc đồng hồ đầu tiên với bộ máy Calibre 2120, lần đầu trang bị vào mẫu 5271 được thiết kế bởi Gerald Genta. Sau đó, những phiên bản khác: mẫu 5272, 5273, 5274, v.v… được phát triển.
Mẫu 5271. Mẫu Royal Oak đầu tiên được trang bị bộ máy Calibre 2120, bộ máy tự lên dây mỏng nhất với rôto trung tâm
Năm 1967, hơn 650 chiếc Audemars Piguet đã được trang bị Calibre 2120. Và chỉ trong vòng 10 năm, hơn 12.000 chiếc đã được bán. Calibre 2120 đã xuất sắc thay thế các phiên bản bộ máy cũ 2070-71-72 và trở thành một trong những mũi nhọn sản xuất của thương hiệu. Nó đồng thời làm nền tảng cho sự ra đời của phiên bản 2121 với hiển thị ngày. Sở hữu độ mỏng hơn 1 chút (3.05mm), Calibre 2121 đã được áp dụng cho chiếc Royal Oak đầu tiên vào năm 1972 và là cơ sở phát triển cho 2800 chiếc đồng hồ lịch vạn niên phía dưới mặt số năm 1978, làm sống lại lịch sử của cũng chiếc đồng hồ phức tạp.
Triển lãm của Audemars Piguet tại Basel Fair năm 1970
Sau 55 năm phục vụ một cách trung thành và đóng góp vào sự thành công của Audemars Piguet, Calibre 2120 và 2121 đã nhường chỗ cho những bộ máy tiên tiến và phức tạp hơn xuất hiện, mở đường cho những thành công trong tương lai của thương hiệu. Tuy vậy, những kí ức về bộ máy đồng hồ mỏng nhất thế giới lúc bấy giờ vẫn sẽ luôn tồn tại trong tâm trí của giới mộ điệu như một cột mốc lịch sử thay đổi hoàn toàn bộ mặt của Audemars Piguet.
Audemars Piguet
Union Square Shopping Center, 171 Đồng Khởi, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0283 620 8787
Giờ mở cửa: 9:00 – 22:00 từ thứ Hai đến Chủ Nhật